This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Người tiểu đường bị ho kéo dài

Viên ngậm ho không đường, có Isomalt dễ sử dụng và phù hợp cho người bệnh tiểu đường (ảnh minh họa)

Bác sĩ chim cánh cụt giải đáp:

Người đái tháo đường (ĐTĐ) đặc trưng bởi sự suy giảm chức năng hệ miễn dịch, giảm sức đề kháng toàn bộ cơ thể, suy giảm chức năng của lớp nội mạc đường hô hấp và nhu động của các vi nhung mao trên bề mặt các tế bào nội mạc này. Bên cạnh đó, một hệ mao mạch khỏe mạnh luôn có vai trò tích cực trong việc kháng khuẩn. Ở người ĐTĐ, các mạch máu nhỏ bị tổn thương nhiều ở lớp tế bào lót trong cùng - lớp tế bào nội mạc mạch, các tế bào hồng cầu bị giảm sự mềm dẻo và sự trao đổi oxy bị rối loạn ở mô khiến cho sức kháng khuẩn tại chỗ bị suy giảm. Ngoài ra, các biến chứng của bệnh tiểu đường: bệnh lý thần kinh mạn tính, bệnh lý tim mạch, bệnh lý thận, viêm nhiễm và tổn thương tứ chi… cũng góp phần vào việc làm giảm sức đề kháng của cơ thể..

Chính vì vậy, nguy cơ bị các tác nhân gây bệnh xâm nhập và mắc bệnh ở người ĐTĐ luôn cao hơn, trầm trọng hơn người bình thường, thời gian điều trị kéo dài hơn, nhiều biến chứng hơn cũng như tỷ lệ tử vong cao hơn so với những người không bị ĐTĐ, đặc biệt biến chứng nhiễm khuẩn đường tiêu hóa cũng như ở phổi. Biến chứng này thường tiến triển rất nhanh, nếu không được điều trị kịp thời sẽ gây suy kiệt và tử vong.

1, Bạn phải làm để phòng tránh và điều trị biến chứng ?

Nếu bạn có bất kỳ triệu chứng giống như cúm, liên hệ với bác sĩ ngay lập tức. Nếu bạn bị cúm, bác sĩ có thể kê toa thuốc kháng virus giúp các triệu chứng bớt nghiêm trọng và giúp bạn cảm thấy khoẻ nhanh hơn.

Ngoài việc tuân theo các khuyến cáo điều trị của chúng bạn, bạn nên:

● Tiếp tục dùng thuốc trị bệnh tiểu đường hoặc insulin.

● Kiểm tra lượng đường trong máu mỗi bốn giờ và theo dõi kết quả.

● Uống nhiều chất lỏng không calo để tránh mất nước.

● Ăn uống như thường lệ.

● Tự đo cân nặng mỗi ngày. Nếu bạn sụt cân trong khi bạn không làm gì để giảm cân thì đó là dấu hiệu của đường trong máu cao.

2, Bạn có thể dùng thuốc cảm cúm không?

Một vài loại thuốc cúm không kê toa thông thường thì thích hợp cho những người bị bệnh tiểu đường; một số loại thuốc thì đặc biệt phù hợp với những người bị bệnh tiểu đường hơn những người không bị.

Ví dụ, một số loại thuốc cảm cúm có chứa thuốc kháng viêm không steroid, như ibuprofen, thông thường không được khuyến cáo cho bệnh nhân tiểu đường vì có thể làm tăng nhẹ nguy cơ mắc bệnh tim và đột quỵ.

Một số loại thuốc trị ho, trị cảm cúm có thể chứa hàm lượng đường tương đối cao, có thể sẽ gây khó khăn trong việc kiểm soát lượng đường trong máu.

3, Chú ý sử dụng thuốc ngậm ho và đau họng không đường khi bị ốm

- Không nên tự ý uống các loại thuốc không được kê đơn, vì chúng có thể làm ảnh hưởng tới đường máu.

- Chú ý các loại thuốc có đường (thuốc ho siro…) và một số thuốc không chứa đường nhưng làm góp phần hạ đường máu (aspirin, giảm đau, hạ sốt…). Nên chọn các sản phẩm trị ho từ thảo dược không đường .

- Cẩn thận với những thuốc làm tăng đường máu như các thuốc trị cảm cúm, chống sung huyết.

- Đảm bảo nguyên tắc điều trị bằng kháng sinh khi bị nhiễm khuẩn như nhiễm trùng đường tiểu, răng miệng, viêm họng sưng amidan…

VIÊN NGẬM HO BEZUT KHÔNG ĐƯỜNG

Phòng và Giảm Ho hiệu quả cho người ăn kiêng, bệnh tiểu đường

Viên ngậm ho Bezut không đường hiệp đồng tác dụng từ 7 loại tinh dầu bản địa có tác dụng kháng viêm, giảm ho, long đờm và thành phần cao lá thường xuân của tinh hoa y học phương tây mang lại hiệu quả cao cho người bị ho, ngứa họng, đau rát họng, khan tiếng, người bị cảm lạnh, viêm đường hô hấp, giúp:

- Giúp làm ấm họng, thơm miệng.

- Giảm các triệu chứng ho, cảm lạnh, ngứa họng, đau rát họng.

Dùng cho trẻ em (trên 12 tuổi), người lớn bị ho, viêm phế quản, viêm đường hô hấp.

Hotline tư vấn miễn cước: 1800 6533.

Tham khảo thêm tại : www.Bezut.vn / https://www.facebook.com/BacsiBezut

GPQC: 00204/2017/ATTP-XNQC

Sản phẩm không phải là thuốc, không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh

Ứng phó với bệnh gout

Bệnh có liên quan chặt chẽ đến các bệnh lý do rối loạn chuyển hóa khác (béo phì, tiểu đường, rối loạn lipid máu…) và các bệnh lý tim mạch (tăng huyết áp, thiếu máu cơ tim…) vốn được coi là những hiểm họa của loài người...

Những biểu hiện của bệnh

Bệnh do tăng acid uric máu đơn thuần thường bắt đầu từ tuổi dậy thì, có thể kéo dài 20-40 năm mà không có triệu chứng gì cho đến khi xuất hiện cơn gout cấp đầu tiên. Đây được coi là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của bệnh.

Cơn viêm khớp gout cấp:

Lúc đầu thường là những cơn gout rất điển hình, thể hiện ở khớp ngón I bàn chân (chiếm 75%) , các khớp khác chiếm 25% ( khớp cổ chân, gối, cổ tay, khuỷu.... )

Người bệnh bị đau đột ngột dữ dội kèm sưng tấy, nóng, đỏ, xung huyết... ở một khớp, thường xảy ra về đêm kèm theo triệu chứng viêm khớp tăng tối đa trong 24 - 48 giờ và kéo dài từ 3 đến 10 ngày rồi tự khỏi hoàn toàn. Càng về sau đợt viêm cấp càng kéo dài, không tự khỏi, không thành các cơn điển hình, biểu hiện ở nhiều khớp, đối xứng và để lại các di chứng cứng khớp, teo cơ, hạn chế vận động...

Ứng phó với bệnh goutTriệu chứng thường gặp của bệnh gút.

Biểu hiện toàn thân: Người bệnh có thể sốt, rét run, cứng gáy, mệt mỏi...

Khoảng cách giữa cơn đầu tiên và cơn thứ hai có thể từ vài tháng đến vài năm, thậm chí >10 năm. Càng về sau khoảng cách này càng ngắn lại. Các cơn viêm khớp cấp xảy ra liên tiếp và không khi nào dứt cơn.

Viêm khớp gout mạn:

Viêm nhiều khớp, có thể đối xứng, biến dạng khớp, teo cơ, cứng khớp...

Các biểu hiện toàn thân khác: Thiếu máu, suy thận mạn tính do các acid uric lắng đọng dưới dạng muối urate ở nhu mô thận. Hiện tượng suy thận lúc đầu tiềm tàng, hoàn toàn không có biểu hiện lâm sàng, tăng dần, chậm nhưng chắc và sẽ không hồi phục, đây là nguyên nhân chính làm tử vong và giảm tuổi thọ cho bệnh nhân gout; sỏi thận do acid uric lắng đọng ở ống thận; tăng huyết áp; đái tháo đường; rối loạn lipid máu ...

Nguyên nhân gây tăng acid uric

Tăng acid uric trong máu: Do nội sinh (tăng tổng hợp các purin do các quá trình phá hủy các nhân tế bào) và ngoại sinh (do phân hủy các thức ăn có chứa purin), do giảm thải acid uric khỏi cơ thể (acid uric niệu < 800 mg/24h) hoặc do kết hợp cả tăng sản xuất acid uric và giảm thải acid uric.

Về lối sống và điều kiện kinh tế xã hội: Tăng lượng tiêu thụ bia, rượu ở cộng đồng; tăng sử dụng thiazide và liều nhỏ aspirine cho các bệnh lý tim mạch; tăng sử dụng chế độ ăn giầu purin; gia tăng các bệnh lý chuyển hóa và béo phì; gia tăng tỷ lệ người trên 65 tuổi...

Ứng phó thế nào?

Gout là một bệnh lý khớp đáp ứng tốt với điều trị nhưng đòi hỏi điều trị liên tục, lâu dài và toàn diện, kết hợp ngay từ đầu giữa điều trị và phòng bệnh với 3 mục đích:

Khống chế các đợt viêm khớp Gout cấp: Bằng các thuốc kháng viêm giảm đau, với nguyên tắc dùng sớm, dùng liều cao và ngắn ngày.

Ngăn ngừa tái phát các đợt viêm khớp bằng cách làm hạ và duy trì acid uric máu ở mức cho phép (< 300 micromol/L hay < 5 mg/dL).

Điều chỉnh bằng chế độ ăn uống: Hạn chế các thức ăn chứa nhiều nhân purin như phủ tạng động vật (tim, gan, thận, óc…), các loại thịt đỏ, trứng vịt lộn, cá chích, cá đối, cá mòi, các loại rau mầm, nấm...; dùng nhiều rau xanh, trái cây tươi, nước suối có gas; bằng thuốc chống tổng hợp acid uric hay thuốc tăng thải acid uric ra ngoài

Kiểm soát tốt các bệnh lý kèm theo: Kiểm soát tốt các bệnh lý kèm theo (nếu có) như cao huyết áp, rối loạn lipid máu, tiểu đường, bệnh mạch vành... Giảm và kiểm soát cân nặng…

Nếu được chẩn đoán sớm bệnh có thể điều trị khỏi bằng các phác đồ điều trị chuẩn.

PGS. TS.BS. Lê Anh Thư

5 liên khoa cứu sống hai mẹ con sản phụ mắc tim bẩm sinh nguy kịch

Ca bệnh thập tử nhất sinh

PGS.TS Trương Thanh Hương - Phòng Q2 Viện Tim mạch, BV Bạch Mai - Người trực tiếp tham gia chỉ đạo ê - kíp cấp cứu liên khoa Sản - Nhi - Viện Tim mạch cho biết: Khoảng 10h ngày 21/12/2017, Phòng Q2 đã tiếp nhận bệnh nhân Lành Thị N. (SN 1997, quê ở Chợ Đồn, Bắc Kạn) mắc bệnh tim bẩm sinh giai đoạn muộn vào viện trong tình trạng hết sức nguy kịch.

Bệnh nhân có tiền sử tim bẩm sinh từ khi 14-15 tuổi: Thông liên thất rộng phần quanh màng - Shunt 2 chiều - tăng áp lực động mạch phổi nặng nhưng không được tư vấn, điều trị; mang thai tuần 28 (lần 1 bị thai lưu khi được 4 tháng).

Trước đó 1 ngày, bệnh nhân xuất hiện ho ra máu đỏ tươi, số lượng nhiều. Do tăng áp lực động mạch phổi nặng, bệnh nhân ho ra máu thường xuyên, tăng lên khi tuổi thai ngày càng lớn dần, tiên lượng rất nặng nề cho cả mẹ và con.

Một cuộc hội chẩn toàn BV nhanh chóng được tổ chức dưới sự chủ trì của GS.TS Mai Trọng Khoa để xác định hướng xử trí phù hợp đạt mục tiêu cứu mẹ, sau đó là cứu con. Tuy nhiên, tiên lượng cho cả hai mẹ con đều rất nặng nề nên các bác sĩ đã phải giải thích rất rõ ràng, chi tiết cho gia đình về những nguy cơ có thể xảy ra trước khi tiến hành phẫu thuật.

Sau 3 tuần điều trị bệnh nhân Lành Thị N. đã ổn định và được xuất viện.

Hồi sinh cả mẹ lẫn con

Nhờ sự phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa các chuyên khoa, sau khi kết thúc hội chẩn, 14h chiều cùng ngày bệnh nhân được tiến hành mổ cấp cứu lấy thai. Cuộc phẫu thuật thành công, thai phụ ổn định, tự thở, tình trạng ho máu đỡ, áp lực động mạch phổi giảm so với trước khi phẫu thuật. Thai phụ được tiếp tục theo dõi và điều trị tại Khoa hồi sức tích cực.

Và chỉ sau hồi sức 1 ngày, bệnh nhân tiến triển tốt và được chuyển lại về phòng Q2 - Viện Tim Mạch để tiếp tục theo dõi và điều trị bệnh tim bẩm sinh. Sau 3 tuần tuần điều trị, sức khỏe của sản phụ Lành Thị N. dần ổn định và được xuất viện ngày 12/1/2018 trong niềm vui của gia đình và tập thể thầy thuốc Bệnh viện Bạch Mai.

Thai nhi là một bé trai nặng 1,2 kg, đã được chuyển ngay tới phòng Hồi sức sơ sinh của Khoa Nhi để hồi sức và kiểm soát theo chế độ của trẻ sơ sinh non, yếu có nguy cơ cao. Là người trực tiếp điều trị cho cháu trong những ngày “thập tử nhất sinh”, BS. Đỗ Tuấn Anh cho biết: Tại khoa Nhi, bé được cách ly, nuôi dưỡng trong lồng ấp, được thở máy, tiếp tục hồi sức tích cực nhưng cháu bé luôn trong tình trạng rất nặng và phức tạp: nồng độ oxy trong máu SpO2 không đảm bảo.

Tuy nhiên, sau 8 ngày điều trị tại Phòng Sơ sinh với chế độ chăm sóc đặc biệt, tận tình của các thầy thuốc khoa Nhi, đến ngày 05/01 cháu đã được ra khỏi lồng ấp, tự bú qua bình được 10 ml/bữa. Hiện tại (ngày 12/1), sức khỏe của cháu ổn định và tiến triển tốt, cháu có thể tự bú được 25 ml sữa/bữa. Đặc biệt hơn nữa cháu bé đã được khám sàng lọc tim bẩm sinh ngay ngày thứ 2 điều trị, kết quả: trẻ không mắc tim bẩm sinh.

Cháu Bế Ngọc Đ. ngủ ngon trong vòng tay của bà nội.

Thai phụ nên khám sàng lọc tim bẩm sinh

Đánh giá về ca bệnh này, BS. Trần Hải Yến - Trưởng phòng Q2, Viện Tim mạch nhấn mạnh: Trong những trường hợp như thế này, việc tiên lượng, khẩn trương đưa ra hướng xứ trí kịp thời và phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa các chuyên khoa để cấp cứu cho người bệnh là vô cùng quan trọng. Ca mổ lấy thai thành công, cả mẹ và thai nhi đều được cứu sống trong tình huống hết sức khó khăn này là kết quả của sự phối kết hợp hiệu quả, trách nhiệm của các thầy thuốc Viện Tim mạch, khoa Sản, khoa Nhi, khoa Gây mê hồi sức và khoa Hồi sức tích cực, BV Bạch Mai.

Qua đây, các bác sĩ cũng khuyến cáo tất cả các thai phụ đều nên đăng ký khám sàng lọc tim bẩm sinh cho cả mẹ và con theo sự tư vấn, hướng dẫn của bác sĩ, đặc biệt ở những thai phụ có tiền sử tim bẩm sinh thì chỉ định đó là bắt buộc.

M.Thanh - D.Hải

Viêm quanh khớp vai

Mặc dù đây là bệnh lý không gây nguy hiểm đến tính mạng nhưng lại có thể gây giảm hoạt động, lao động và ảnh hưởng lớn đến chất lượng sống của người bệnh.

Viêm quanh khớp vai rất thường gặp ở những người 40-60 tuổi, chiếm tỉ lệ khoảng 3-5% số người ở độ tuổi này. Hai thể viêm quanh khớp vai thông thường và viêm quanh khớp vai thể đông cứng, tỉ lệ nam gặp nhiều hơn nữ. Riêng hội chứng loạn dưỡng thần kinh giao cảm phản xạ (hội chứng vai - tay), nữ chiếm 70%, nam chỉ chiếm 30%. Viêm quanh khớp vai chỉ thấy ở một bên, không thấy cả hai bên cùng bị. Viêm quanh khớp vai tuy không nguy hiểm đến tính mạng, nhưng ảnh hưởng nhiều đến khả năng lao động và chất lượng cuộc sống của người bệnh. Trong đó, hội chứng vai - tay nếu không được điều trị có thể dẫn đến mất chức năng tay và tay bị bệnh trở thành tàn phế.

Viêm quanh khớp vaiHình ảnh của viêm bao khớp.

Các thể viêm quanh khớp vai

Viêm quanh khớp vai là thuật ngữ dùng để chỉ các bệnh viêm, đau khớp vai do tổn thương phần mềm (gân cơ, dây chằng, bao hoạt dịch, bao khớp) mà không có tổn thương ở sụn và xương khớp vai, không do chấn thương mới và không do nhiễm khuẩn. Viêm quanh khớp vai được chia làm 3 thể:

Viêm quanh khớp vai thể thông thường: Đây là thể hay gặp nhất của hội chứng viêm quanh khớp vai, chiếm khoảng 90% số bệnh nhân bị viêm quanh khớp vai với biểu hiện đau khớp vai, không kèm theo hạn chế vận động khớp vai hoặc chỉ hạn chế vận động do đau.

Bệnh nhân không sốt, toàn thân bình thường nhưng triệu chứng nổi bật là đau khớp vai. Khởi phát đau thường từ từ và tăng dần nhiều ngày hoặc hàng tháng, đau cả khi nghỉ, thường đau tăng về đêm do ban đêm khớp vai không hoạt động, lượng máu cung cấp cho gân chóp xoay và các tổ chức khác của khớp vai tăng, làm tăng phù nề tổ chức viêm, đồng thời trương lực cơ khi ngủ giảm và khi nằm ngửa khớp vai thường cao hơn mặt giường, trọng lượng của cánh tay kéo chỏm lồi cầu ra xa ổ chảo làm các cấu trúc viêm như gân chóp xoay, các bao hoạt dịch bị kéo căng và kích thích gây đau tăng. Ngoài ra, đau cũng tăng khi vận động cánh tay, nhất là tới gần cuối tầm vận động khiến người bệnh không dám vận động cánh tay hết tầm chứ không phải do hạn chế vận động của khớp vai.

Viêm quanh khớp vai thể đông cứng: Là bệnh có đặc trưng đau và hạn chế vận động khớp vai. Nguyên nhân do viêm dính bao khớp ổ chảo - cánh tay, không có tổn thương sụn và xương khớp vai, không do chấn thương mới khớp vai, không do vi khuẩn. Viêm quanh khớp vai thể đông cứng cũng là thể bệnh hay gặp, chiếm dưới 10% các trường hợp viêm quanh khớp vai, đứng hàng thứ hai sau viêm quanh khớp vai thông thường.

Bệnh thường diễn biến qua 3 giai đoạn: Giai đoạn đau khớp vai, giai đoạn khớp vai đông cứng và giai đoạn tan đông. Ở giai đoạn đau khớp vai, người bệnh đau cả khi nghỉ ngơi, đau nhiều về đêm có khi làm bệnh nhân tỉnh giấc. Đau tăng với bất kỳ vận động nào của cánh tay kèm theo hạn chế vận động khớp vai. Bệnh nhân phàn nàn khớp vai cứng, không thể chải đầu hoặc gãi lưng được, đưa tay ra trước ra sau đều bị hạn chế. Giai đoạn khớp vai đông cứng khiến tầm hạn chế vận động khớp vai tăng dần đến mức khớp vai như bị đông cứng lại. Bệnh nhân không thể cử động được vai, không với được tay lên để chải tóc, không gãi được sau lưng, không thể với tay để lấy đồ vật được. Giai đoạn này thường kéo dài từ hai tới sáu tháng, khớp vai bị mất chức năng hoàn toàn, không vận động được. Cuối cùng là giai đoạn tan đông với tầm vận động của khớp vai tăng dần nhưng chậm chạp trong nhiều tháng, có khi hàng năm. Ngược lại với sự tiến bộ của tầm vận động khớp thì đau khớp vai trở lại mỗi khi vận động khớp vai, tuy nhiên mức độ đau thấp hơn so với giai đoạn đầu. Giai đoạn này có một số bệnh nhân đòi hỏi phải dùng thuốc giảm đau.

Hội chứng vai tay: Còn gọi là hội chứng Sudex hay hội chứng loạn dưỡng phản xạ thần kinh giao cảm, biểu hiện đặc trưng bởi đau kiểu bỏng buốt, nề đỏ bàn ngón tay kèm theo viêm quanh khớp vai thể đông cứng cứng cùng bên. Hội chứng vai - tay là hội chứng ít gặp, chỉ dưới 1% các bệnh nhân viêm quanh khớp vai, nhưng lại là hội chứng nặng nề, khó điều trị nhất, có thể dẫn đến một bên tay bị tàn phế; thường có biểu hiện diễn biến qua ba giai đoạn. Giai đoạn cấp tính thường kéo dài 3-6 tháng với các triệu chứng rối loạn vận mạch và dinh dưỡng bàn tay như đau kiểu bỏng buốt thường xuyên, tăng dần, dai dẳng ở vùng bàn ngón tay, nhất là khi hạ bàn tay xuống thấp, khiến bệnh nhân luôn phải dùng tay lành đỡ tay bệnh và nâng tay bệnh lên cao. Giai đoạn loạn dưỡng thường kéo dài 3-6 tháng gồm các triệu chứng rối loạn vận mạch và dinh dưỡng bàn tay cùng với đông cứng khớp vai tồn tại dai dẳng nhiều tháng, khiến bệnh nhân đau đớn và lo lắng. Bàn và ngón tay bệnh nhân luôn nề, các ngón tay ở tư thế gấp, da mu tay đỏ tím, có chỗ tái... Giai đoạn teo thường tồn tại kéo dài. Tình trạng đông cứng khớp vai chuyển sang giai đoạn tan đông, tầm vận động khớp vai phục hồi dần, cơ vùng vai và cánh tay bị teo, triệu chứng rối loạn dinh dưỡng vận mạch bàn ngón tay giảm dần, đau buốt và phù nề giảm dần làm lộ diện tình trạng teo các cơ vùng bàn tay và ngón tay.

Yếu tố nguy cơ nào gây bệnh?

Tuổi, giới tính: Bệnh hay gặp ở người 40-60 tuổi, gặp ở nam nhiều hơn nữ.

Nghề nghiệp: Người lao động chân tay mà động tác lao động thường phải giơ tay cao hơn 90 độ, như thợ trát trần nhà, thợ quét sơn, công nhân sửa máy khi máy ở vị trí cao hơn vai. Người lao động hoặc học tập có thói quen chống tỳ khủy tay lên bàn thường bị viêm khớp vai bên đó. Các nghề nghiệp gây rung xóc khớp vai kéo dài như lái xe đường dài, lái máy xúc, máy ủi, công nhân xây dựng phải sử dụng máy đầm nhiều. Các công việc gây ra các vi chấn thương cho khớp vai. Các động tác gây căng dãn gân cơ khớp vai lặp đi lặp lại kéo dài như chơi tennis, chơi gôn, ném lao, xách các vật nặng...

Tiền sử có chấn thương vùng khớp vai: Ngã chống thẳng bàn tay hoặc khuỷu tay xuống nền gây lực dồn lên khớp vai, các chấn thương phần mềm vùng khớp vai, gãy xương cánh tay, xương đòn, xương bả vai...

Đã phẫu thuật: Những người đã từng phẫu thuật vùng khớp vai, phẫu thuật hoặc nắn gãy xương các xương liên quan đến khớp vai như xương cánh tay, xương đòn, xương bả vai, những người phải bất động khớp vai một thời gian dài như sau đột quỵ, giai đoạn phục hồi sau các bệnh nặng, bất động do gãy xương cánh tay... có nguy cơ cao bị viêm quanh khớp vai.

Mắc bệnh mạn tính: Người bị mắc một số bệnh mạn tính như viêm khớp dạng thấp, đái tháo đường, bệnh ở phổi và lồng ngực, đột quỵ não, cơn đau thắt ngực... cũng là những trường hợp có yếu tố nguy cơ mắc bệnh cao.

Sau đột quỵ não: Bệnh nhân đột quỵ não có tỉ lệ bị đông cứng khớp vai bên liệt cao hơn 3-4 lần người bình thường. Với người bệnh mắc hội chứng vai - tay thường xuất hiện từ 1-6 tháng sau đột quỵ não.

Sử dụng một số thuốc: Những người dùng thuốc kháng lao, thuốc nhóm barbiturat có nguy cơ cao bị hội chứng vai- tay.

Và điều trị...

Điều trị nội khoa

Điều trị bằng thuốc: Có thể sử dụng các thuốc chống viêm giảm đau non-steroid hoặc steroid đường uống hoặc tiêm bắp. Tiêm corticoid tại chỗ: Thuốc thường sử dụng là depomedrol hoặc diprospan.

Viêm quanh khớp vaiTiêm corticoid tại chỗ điều trị viêm quanh khớp vai.

Các phương pháp điều trị không dùng thuốc: Vật lý trị liệu trong đó có thể sử dụng nhiệt trị liệu, điện trị liệu, sóng ngắn trị liệu, vận động trị liệu và y học cổ truyền như châm cứu, thủy châm thuốc.

Điều trị can thiệp áp dụng với viêm quanh khớp vai thể đông cứng để trả lại tầm vận động khớp vai

Kéo bóc tách viêm dính bao khớp vai dưới gây mê: Cần đưa bệnh nhân xuống buồng mổ, gây mê và bác sĩ chấn thương chỉnh hình kéo bóc tách viêm dính. Sau đó bệnh nhân được điều trị chống viêm và tập vận động để chống dính lại.

Bơm tạo áp lực vào khớp ổ chảo - cánh tay: Để bóc tách dính bao khớp vai dưới hướng dẫn của siêu âm hoặc X-quang tăng sáng cần có trang thiết bị hiện đại, nhưng tỉ lệ thành công thấp.

Kéo bóc tách dính khớp vai dưới gây tê thần kinh trên vai: Đây là sáng kiến của Bệnh viện 103 đã được công nhận cho kết quả phục hồi tầm vận động khớp vai rất tốt. Thời gian điều trị ngắn, bệnh nhân không cần nội trú, có thể về ngay trong ngày.

Điều trị phẫu thuật

Các biện pháp phẫu thuật thường được thực hiện để điều trị viêm quanh khớp vai bao gồm phẫu thuật nội soi khâu nối gân cơ trên gai bị đứt hoàn toàn hoặc đứt bán phần; phẫu thuật nội soi bóc dính bao khớp ổ chảo - cánh tay trong viêm quanh khớp vai thể đông cứng; phong bế hạch giao cảm cổ hoặc phẫu thuật cắt hạch giao cảm cổ trong hội chứng loạn dưỡng phản xạ thần kinh giao cảm.

PGS.TS. Hà Hoàng Kiệm

Viêm gan A có gây biến chứng?

Xin hỏi bác sĩ biểu hiện sớm của bệnh là gì và cách phòng ngừa?

Phạm Việt Anh (vietanh@gmail.com)

Viêm gan A là bệnh do virút viêm gan A, lây truyền theo đường ăn uống. Triệu chứng dễ nhận thấy nhất của người mắc bệnh viêm gan A là vàng da, vàng mắt, mệt mỏi, chán ăn, đau nhức hạ sườn phải... Triệu chứng của bệnh có thể thay đổi tùy theo lứa tuổi của bệnh nhân, càng lớn tuổi triệu chứng của bệnh càng nặng. Và tùy theo sức khỏe của mỗi cá nhân, bệnh có thể phát triển thành một trong 5 trường hợp sau đây: Viêm gan thầm lặng; Viêm gan tiêu biểu; Viêm gan với vàng da kinh niên; Viêm gan tái phát nhiều lần; Viêm gan ác tính. Trên lâm sàng, biểu hiện của giai đoạn cấp tính là bệnh nhân đột ngột bộc phát các dấu hiệu giống như cảm cúm gồm sốt, ho, đau mỏi cơ, mệt mỏi, đau đầu, chán ăn, đi tiểu ít, nước tiểu sẫm màu… Sau 5-7 ngày mắc các triệu chứng trên, bệnh nhân có dấu hiệu khỏi sốt nhưng vẫn tiếp tục mệt mỏi và chán ăn. Bên cạnh đó có các dấu hiệu xuất hiện kèm theo như vàng mắt, vàng da kéo dài từ 2-4 tuần. Thông thường, các triệu chứng viêm gan A thường tự khỏi sau khi người bệnh đi tiểu nhiều. Nhưng có khoảng 2% trường hợp người bệnh mắc viêm gan A có diễn biến nặng dẫn đến suy gan, hôn mê sâu và có nguy cơ dẫn đến tử vong. Chính vì vậy, đừng quá chủ quan với biểu hiện “cảm cúm thông thường”. Cần đi khám ngay nếu sau cơn sốt vẫn còn dấu hiệu mệt mỏi, biếng ăn, vàng da, vàng mắt.

Hiện tại bố cháu đã khỏi bệnh thì không cần quá lo lắng vì viêm gan A chỉ gây sưng gan cấp tính chứ không tạo nên những biến chứng lâu dài (xơ gan, chai gan hoặc ung thư gan) như virut viêm gan b, C, và D. Để phòng viêm gan A, cần thực hiện ăn chín uống sôi, không ăn hàng quán bán rong mất vệ sinh. Vùng có dịch viêm gan A nên dùng vắc-xin để phòng ngừa.

BS. Trần Quang Nhật

Lóc tách động mạch chủ: “Thảm họa” trong các bệnh tim mạch

Kể cả khi bệnh nhân được phẫu thuật kịp thời, tỷ lệ tử vong xung quanh phẫu thuật cũng còn khá cao, khoảng 15-20%. Bệnh được coi là “thảm họa” trong các bệnh lý tim mạch.

Vai trò giải phẫu quan trọng của động mạch chủ

ĐMC là đường dẫn máu chính của cơ thể. Xuất phát từ tâm thất trái, ĐMC chạy theo hình vòng cung từ giữa ngực, đi dọc cạnh bên trái cột sống xuống bụng, tới vùng xương cùng thì kết thúc bằng cách chia làm hai nhánh động mạch chậu chạy xuống cấp máu cho hai chân. Như vậy, ĐMC có hai đoạn: đoạn ĐMC ngực và đoạn ĐMC bụng. Từ các đoạn này cho các nhánh cấp máu cho toàn bộ các cơ quan. Có thể ví hệ thống tuần hoàn giống như một hệ thống cấp nước, ở đó quả tim chính là trung tâm cấp nước với các máy bơm hoạt động liên tục không ngừng nghỉ, ĐMC là đường ống dẫn nước chính. Do vai trò giải phẫu quan trọng như vậy nên khi bị thương tổn sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng.

Phẫu thuật lóc tách ĐMC type A tại Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E.

Phẫu thuật lóc tách ĐMC type A tại Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E.

Lóc tách thành động mạch chủ và nguy cơ tử vong tức thì

Thành ĐMC được cấu tạo rất bền vững để đảm bảo chịu được áp lực cao, liên tục trong suốt cuộc đời chúng ta (chính là huyết áp động mạch). Các nhà giải phẫu bệnh đã tìm hiểu và cho thấy nó được cấu tạo bởi 3 lớp tổ chức có tính chất mô học khác nhau (được đặt tên 3 lớp áo: ngoài, giữa và trong). Ba lớp này hòa quyện với nhau thành một tấm vững chắc là thành động mạch. Nếu vì một lý do gì đó phá hỏng cấu trúc thống nhất này, khả năng chịu lực bị đe dọa gây ra các biến chứng nghiêm trọng khó lường.

Một trong những bệnh lý nguy hiểm nhất là lóc tách thành ĐMC: lớp áo trong bị xé rách, dòng máu áp lực cao đi vào giữa các lớp làm thành động mạch bị tách làm đôi dẫn tới hậu quả: vỡ gây tử vong do sốc mất máu (giống như vỡ đường ống nước chính), thiếu máu các cơ quan do mảng thành mạch bị tách ra lấp kín các lỗ vào của nhánh mạch nuôi.

Tại sao lại là lóc tách động mạch chủ type A?

Bệnh lóc tách ĐMC được chia thành nhiều loại tùy theo vị trí thương tổn. Hai vị trí quan trọng nhất gây tử vong tức thì là mạch vành và mạch não (xuất phát đầu tiên ngay khi động mạch chủ đi ra từ tâm thất trái). Nếu thương tổn lóc tách chạm đến phạm vi của hai chỗ này thì bệnh được xếp loại A - loại nguy hiểm nhất (gọi là “lóc tách động mạch chủ type A”). Theo số liệu thống kê của các nhà khoa học được ghi trong bộ “Bách khoa về phẫu thuật” (Encyclopédie médico-chirurgicale: EMC): 50% tử vong trong vòng 48 giờ đầu tiên, 60% trong tuần đầu và tới 90% trong tháng đầu nếu không được phát hiện và xử trí. Bệnh được coi là “thảm họa” trong các bệnh tim mạch.

Nguồn cơn gây bệnh

Các yếu tố nguy cơ chính thường gặp gây lóc tách thành ĐMC là: xơ vữa động mạch (bệnh mắc phải, gặp ở người có tuổi), rối loạn bẩm sinh tổ chức cấu tạo nên thành mạch (ví dụ bệnh Marfan, thường gặp người trẻ) và tăng huyết áp. Khi cộng gộp hai yếu tố: thành mạch yếu và tăng huyết áp sẽ là quả bom làm bùng phát lóc tách bất cứ lúc nào nếu không được điều trị. Tình trạng của ĐMC lúc này giống như đường ống dẫn nước đã dùng lâu ngày, chất lượng ống đã xuống cấp lại lắp thêm bơm tăng áp.

Triệu chứng lâm sàng gặp nhiều nhất là đau ngực, triệu chứng sốc mất máu khi biến chứng thành mạch vỡ thường khó cứu; mất mạch cảnh, mạch chi khi lỗ vào các mạch này bị thương tổn, bệnh nhân có thể biểu hiện ở mức độ trầm trọng liệt nửa người, hôn mê, thiếu máu cấp tính chi; thiếu máu các tạng trong ổ bụng gây triệu chứng đau trướng bụng cấp tính - biểu hiện này rất nguy hiểm do tình trạng hoại tử ruột thường dẫn đến tử vong.

Phẫu thuật cấp cứu càng sớm càng tốt

Điều trị bệnh có nhiều phương pháp. Riêng đối với loại A phải chỉ định mổ cấp cứu không trì hoãn (điều đặc biệt của loại phẫu thuật này là rất hay xảy ra trong đêm). Phẫu thuật lóc tách ĐMC type A là một trong những phẫu thuật nặng nề, phức tạp nhất của mổ tim, có trường hợp phải phối hợp với đặt stent graft (được gọi là phương pháp hybrid) để giải quyết triệt để thương tổn. Bệnh nhân được gây mê toàn thân, cho ngủ thật sâu. Phẫu thuật viên sẽ phải thiết lập vòng tuần hoàn nhân tạo, lấy toàn bộ máu ra ngoài, dẫn vào hệ thống máy tim phổi nhân tạo để trao đổi ôxy sau đó bơm lại vào cơ thể (qua đường mạch máu ngoại vi: mạch nách, đùi) để nuôi dưỡng các cơ quan trong quá trình phẫu thuật.

Tiếp đó phẫu thuật viên sẽ xẻ dọc xương ức, mở rộng lồng ngực để bộc lộ quả tim và ĐMC. ĐMC ngực thương tổn và quả tim sẽ được biệt lập khỏi hệ thống tuần hoàn, một loại dung dịch đặc biệt bơm vào hệ thống động mạch vành làm tim ngừng đập và bảo vệ cơ tim trong suốt thời gian mổ. Các chiến lược bảo vệ các cơ quan khác (não, thận, ruột...) cũng phải được tính toán kỹ lưỡng. Thương tổn được xử lý bao gồm: thay hoặc sửa van tim, thay đoạn ĐMC ngực rách vỡ bằng mạch nhân tạo, cắm lại động mạch vành và các nhánh mạch nuôi cho não. Cuộc mổ kéo dài có thể tới hàng chục giờ đồng hồ, phải truyền rất nhiều máu và thuốc.

Thầy thuốc ngoại khoa khuyên gì?Phẫu thuật lóc tách ĐMC rất nặng nề và kéo dài vì phải xử lý nhiều thương tổn nguy hiểm phối hợp. Hơn nữa, việc khâu nối phải thực hiện trên nền ĐMC có bệnh lý viêm mủn rất khó khăn. Thường thời gian để cầm máu các miệng nối khá lâu, chảy máu sau mổ là một trong những nguyên nhân gây biến loạn nhiều nhất của phẫu thuật. Tỷ lệ tử vong, các loại tai biến của phẫu thuật thuộc loại cao nhất trong phẫu thuật tim, thời gian nằm viện kéo dài và thời gian hồi phục lâu, chi phí điều trị rất lớn. Chính vì vậy, việc dự phòng và ngăn ngừa bệnh lý của ĐMC ngực có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong đó, đặc biệt vấn đề phát hiện, kiểm soát và điều trị bệnh tăng huyết áp - nguy cơ tiềm ẩn của nhiều bệnh tim mạch nguy hiểm. Khi đã chẩn đoán lóc tách ĐMC ngực, người bệnh cần được chuyển ngay đến các bệnh viện có khả năng phẫu thuật, tránh phải qua nhiều tuyến trung gian, kéo dài thời gian làm nguy hiểm đến tính mạng.

ThS.BS. Nguyễn Công Hựu (Trưởng khoa Phẫu thuật tim mạch và lồng ngực, TTTM BV E)

Tác hại khi thừa sắt

Đối với các ca ngộ độc sắt cấp tính, bệnh nhân có thể xuất hiện các thương tổn trên ống tiêu hóa và gan, dẫn đến sự gia tăng nồng độ sắt cục bộ và tăng cường sản sinh các gốc tự do. Do đó, các bác sĩ cần ngay lập tức loại bỏ sắt hoặc làm giảm nhanh lượng sắt trong ruột để tránh các thương tổn mô.

Bệnh do thừa sắt

Bệnh thừa sắt hay bệnh quá tải sắt (Hemochromatosis) là một trong các bệnh có liên quan đến lượng sắt trong cơ thể, trong trường hợp này, ruột mất khả năng điều hòa lượng sắt không cần thiết, cùng với đó, sắt lại bị tích trữ quá nhiều ở gan dẫn đến sự nhiễm sắt (Siderosis- hiện tượng các mô tích trữ quá nhiều sắt) và gây thương tổn đến các cơ quan. Một người bình thường có thể hấp thụ 1mg sắt/ngày, nhưng với các bệnh nhân mắc bệnh thừa sắt, họ có thể hấp thụ tới 3mg/ngày. Trái với suy nghĩ của nhiều người, đây là một bệnh khá phổ biến, cứ 15 người sẽ có một người mắc bệnh thừa sắt. Bệnh được chia thành hai nhóm, nhóm bệnh thừa sắt do di truyền (Hereditary Hemochromatosis), nhóm còn lại là nhóm thừa sắt mắc phải (Acquired Hemochromatosis).

Tác hại khi thừa sắtBàn tay bình thường và bàn tay thừa sắt

Bệnh thừa sắt do di truyền là một bệnh bẩm sinh, ngay từ khi sinh ra, ruột đã mất khả năng điều hòa lượng sắt hấp thụ, lượng sắt “thừa” này sẽ không được bài tiết ra ngoài hay xử lý bằng một cơ chế phù hợp mà sẽ được tích trữ lại ở gan và tim. Bệnh nhân có khả năng hấp thụ tới 3mg sắt trong một ngày, và trong 40 - 50 năm, 20 - 40g sắt sẽ được tích trong cơ thể, đặc biệt là ở gan và tim. Việc phát hiện sớm bệnh này ở trẻ chủ yếu vẫn dựa trên thí nghiệm đo lượng Ferritin trong huyết thanh và trong mẫu sinh thiết gan. Bệnh thừa sắt mắc phải lại là một bệnh cơ hội và thường đi kèm với các bệnh như thiếu hồng cầu, các bệnh về gan và các bệnh liên quan đến hấp thụ sắt.

Nguyên nhân gây ngộ độc sắt là gì?

Quá liều: ngộ độc sắt cấp tính thường là kết quả của việc uống quá liều lượng sắt cho phép. Phần lớn các trường hợp xảy ra ở trẻ em dưới 5 tuổi vô tình nuốt phải viên bổ sung sắt hoặc đa sinh tố dành cho người trưởng thành.

Quá tải sắt: tình trạng nhiễm độc sắt mạn tính. Nguyên nhân quá tải sắt có thể do yếu tố di truyền, một người được truyền máu với số lượng lớn, có bệnh gan như viêm gan C mạn tính hoặc mắc phải chứng nghiện rượu.

Triệu chứng của ngộ độc sắt

Khi bị ngộ độc sắt cấp tính, các triệu chứng ngộ độc sắt do quá liều thường được chia thành 5 giai đoạn dưới đây.

Giai đoạn 1 (từ 0 - 6 giờ): các triệu chứng có thể bao gồm nôn, nôn mửa, tiêu chảy, đau bụng, khó chịu và buồn ngủ. Trong những trường hợp nghiêm trọng, hơi thở và nhịp tim trở nên nhanh, người bệnh có thể rơi vào trạng thái hôn mê, bất tỉnh, co giật và huyết áp thấp.

Giai đoạn 2 (6 - 48 giờ): các triệu chứng và tình trạng chung của người bệnh có thể được cải thiện.

Giai đoạn 3 (12 - 48 giờ): xuất hiện các triệu chứng sốt, chảy máu, huyết áp hạ xuống thấp, vàng da, suy gan, axít dư thừa trong máu và co giật.

Giai đoạn 4 (2 - 5 ngày): các triệu chứng có thể bao gồm suy gan, chảy máu, rối loạn đông máu, khó thở và thậm chí tử vong. Giảm lượng đường trong máu có thể xảy ra, người bệnh có thể bị nhầm lẫn, lơ mơ hoặc hôn mê.

Giai đoạn 5 (2 - 5 tuần): hình thành sẹo ở dạ dày hoặc ruột. Các sẹo này có thể gây tắc nghẽn, co thắt khiến người bệnh có cảm giác đau bụng và nôn mửa. Xơ gan có thể phát triển sau đó.

Có rất nhiều triệu chứng do ngộ độc sắt gây ra bao gồm chán ăn, thiểu niệu, tiêu chảy, người lạnh, nhiễm axít chuyển hóa và cuối cùng là chết. Bên cạnh đó, trong một số trường hợp, bệnh nhân còn bị sung huyết ống tiêu hóa, gan, thận, tin, não, lá lách, ức. Như một hậu quả của việc tích trữ quá nhiều sắt, bệnh nhân dễ có khả năng mắc xơ gan hoặc ung thư gan.

Tác hại khi thừa sắt

Khác với quá liều sắt, quá tải sắt thường diễn ra một cách âm thầm, không có triệu chứng điển hình nên gây khó khăn trong việc phát hiện, chẩn đoán và điều trị sớm. Trong một số trường hợp, quá tải sắt có thể gây đau khớp, mệt mỏi, thiếu năng lượng, đau bụng, giảm ham muốn tình dục...

Chẩn đoán ngộ độc sắt như thế nào?

Chẩn đoán nhiễm độc sắt thường dựa trên tiền sử bệnh, triệu chứng hiện tại, sự hiện diện của axít trong máu và lượng sắt trong cơ thể. Trong quá trình chẩn đoán, người bệnh cần chia sẻ với bác sĩ về tất cả các loại thuốc hiện tại và chất bổ sung mà họ đang dùng. Việc tiết lộ đầy đủ rất quan trọng vì một số chất bổ sung như vitamin C có thể làm tăng sự hấp thu sắt trong cơ thể.

Điều trị ngộ độc sắt

Giai đoạn đầu của điều trị nhiễm độc sắt cấp tính liên quan đến việc ổn định cơ thể, bao gồm bất kỳ vấn đề về hô hấp hoặc huyết áp.

Tùy thuộc vào mức độ ngộ độc, điều trị có thể bao gồm liệu pháp làm sạch, chẳng hạn như thủ thuật tưới rửa toàn bộ ruột và phương pháp điều trị chelation. Nguyên tắc hoạt động của những phương pháp này là loại bỏ chất sắt dư thừa càng nhanh càng tốt, từ đó làm giảm triệu chứng ngộ độc sắt trên cơ thể.

Những người có triệu chứng đáng kể hoặc lượng sắt cao trong máu có thể cần phải nằm viện. Một số người có thể cần hỗ trợ hô hấp, hoặc thậm chí là theo dõi tim.

Với tình trạng quá tải sắt, việc điều trị chủ yếu là loại bỏ lượng sắt dư thừa, được gọi là lấy máu tĩnh mạch (phlebotomy). Căn cứ vào mức độ quá tải sắt mà các bác sĩ sẽ thực hiện thủ thuật này với tần suất khác nhau.

Lời khuyên của thầy thuốcNgộ độc sắt có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng, thậm chí đe dọa đến mạng sống. Suy gan và suy tim là những nguyên nhân chính gây tử vong do ngộ độc sắt. Nếu ngộ độc sắt gây tổn thương gan nghiêm trọng, nó có thể dẫn đến bệnh đái tháo đường. Suy tim có thể dẫn đến sưng chân, khó thở, hoạt động thể chất bị hạn chế, mệt mỏi, nhịp tim nhanh và buồn nôn.Ngộ độc sắt không chủ ý có thể được ngăn ngừa bằng cách đóng bình đựng thuốc đúng cách và bằng cách bảo quản chúng khỏi tầm nhìn và tầm với của trẻ em. Bất cứ ai dự định uống bất kỳ loại vitamin tổng hợp hoặc chất bổ sung, thực phẩm chức năng có chứa chất sắt trước tiên phải tham vấn với chuyên gia y tế. Điều này đặc biệt quan trọng nếu bạn dự định sử dụng nhiều hơn một sản phẩm bổ sung trong cùng một thời điểm. Sắt không phải là một chất có thể hấp thu bao nhiêu cũng được, đối với những bệnh nhân đã mắc các bệnh liên quan đến gan và tim, nên hạn chế sử dụng các loại thực phẩm chứa nhiều sắt, hay uống các loại vitamin bổ sung sắt.

BS.CKII. HUỲNH TẤN VŨ

Viêm khớp dạng thấp: Bệnh chưa có thuốc đặc trị

Đây là bệnh thường gặp nhất trong các bệnh khớp. Ở Việt Nam tỉ lệ mắc bệnh là 0,5% - 3% dân số là người lớn và 20% số bệnh nhân khớp nằm điều trị tại các bệnh viện. Bệnh có tính chất gia đình và yếu tố thuận lợi để bệnh khởi phát là sau chấn thương, cơ thể suy yếu, sinh đẻ, lạnh ẩm kéo dài...

Nhận diện viêm khớp dạng thấp

Triệu chứng khởi phát: Bệnh bắt đầu từ từ, tăng dần ở 85% số bệnh nhân, 15% bệnh xuất hiện đột ngột với các dấu viêm cấp, đa số bằng viêm một khớp, đó là một trong các khớp bàn tay (cổ tay, bàn ngón, ngón gần), gối. Kéo dài từ vài tuần đến vài tháng rồi chuyển qua giai đoạn toàn phát.

Triệu chứng toàn phát: Viêm nhiều khớp. Biểu hiện sớm là các khớp ở chi, trội hơn thấy ở các khớp xa gốc chi như khớp đốt ngón, đốt bàn tay hoặc bàn chân, cổ tay hoặc cổ chân. Muộn hơn thấy viêm các khớp khuỷu, vai, háng, đốt sống cổ, thái dương hàm, ức đòn.

Tính chất viêm: Xu hướng viêm các khớp cả hai bên và đối xứng. Sưng, đau và hạn chế vận động, ít nóng đỏ, có thể có tràn dịch ở khớp gối. Đau tăng nhiều về đêm gần sáng, cứng khớp buổi sáng. Viêm khớp hoạt động từng đợt. Giai đoạn muộn, các khớp bị biến dạng như ngón tay có hình thoi, nhất là các ngón 2 và ngón 3. Biến dạng khớp đặc trưng xuất hiện chậm hơn như bàn tay gió thổi, bàn tay lưng lạc đà.

Viêm khớp dạng thấpThăm khám cho người mắc bệnh viêm khớp bàn tay.

Triệu chứng ngoài khớp: Toàn thân có thể sốt nhẹ, da xanh, ăn ngủ kém, gầy, rối loạn thần kinh thực vật. Biểu hiện cạnh khớp có thể thấy hạt thấp dưới da, hạt nổi gồ lên khỏi mặt da, chắc, không đau có đường kính khoảng 0,5 - 2cm thường gặp ở trên xương trụ gần khớp khuỷu, trên xương chày gần khớp gối, số lượng từ một đến vài hạt. Da khô teo, phù một đoạn chi, hồng ban lòng bàn tay. Teo cơ rõ ở vùng quanh khớp viêm, viêm gân hay gặp là gân Achille.

Có thể gặp trên lâm sàng nhưng rất hiếm là tổn thương cơ tim kín đáo, có thể có viêm màng ngoài tim. Viêm màng phổi nhẹ, xơ phế nang. Lách to và giảm bạch cầu trong hội chứng Felty. Mất vôi ở xương và gãy tự nhiên. Ngoài ra, còn có thể gặp viêm giác mạc, viêm mống mắt, thiếu máu nhược sắc, rối loạn thần kinh thực vật, nhiễm Amyloid có biểu hiện chủ yếu ở thận, thường xuất hiện rất muộn.

Chẩn đoán bệnh có khó không?

Để chẩn đoán chính xác giai đoạn của viêm khớp dạng thấp, người bệnh có thể được thực hiện một số phương pháp xét nghiệm sau:

Chụp Xquang: Giai đoạn đầu thấy mất vôi ở vùng đầu xương. Sau đó là khuyết xương hay ăn mòn xương phần tiếp giáp với sụn khớp, rồi hẹp khe khớp. Sau cùng là huỷ phần sụn khớp và đầu xương gây dính và biến dạng khớp.

Xét nghiệm sinh học: Gồm dấu hiệu viêm, rối loạn miễn dịch, xét nghiệm dịch khớp. Sinh thiết màng hoạt dịch thấy năm tổn thương: Tăng sinh các hình lông của màng hoạt dịch, tăng sinh các lớp phủ hình lông, xuất hiện những đám hoại tử giống như tơ huyết, tăng sinh mạch máu tân tạo, thâm nhập nhiều tế bào viêm quanh các mạch máu. Khi có từ ba tổn thương trở lên có thể hướng đến chẩn đoán xác định. Sinh thiết hạt dưới da: Ở giữa là một đám hoại tử dạng tơ huyết, xung quanh được bao bọc bởi nhiều tế bào lympho và tương bào.

Các thuốc nào điều trị?

Do viêm khớp dạng thấp là bệnh tiến triển mạn tính nên hiện nay chưa có biện pháp điều trị khỏi hẳn bệnh. Các liệu pháp điều trị đang được áp dụng chỉ nhằm chấm dứt giai đoạn hoạt động của bệnh, làm chậm tiến triển của bệnh và hạn chế các biến chứng, duy trì chức năng của khớp. Tuy nhiên, cần kết hợp nhiều biện pháp như điều trị nội khoa, vật lý trị liệu, phục hồi chức năng, chỉnh hình.

Nhóm thuốc thường được sử dụng là thuốc chống viêm giảm đau không steroid nhưng chỉ được dùng theo chỉ định chặt chẽ, không được lạm dụng. Các thuốc tác dụng làm thay đổi diễn tiến của bệnh được gọi là nhóm thuốc DMARD (Disease Modifying Anti - Rheumatic Drugs). Các thuốc DMARD kinh điển như D-penicillamin, chloroquin, muối vàng có hiệu quả tốt nhưng có nhiều tác dụng không mong muốn nên việc sử dụng bị hạn chế. Hiện nay có các thuốc DMARD mới được gọi là DMARD sinh học đang được sử dụng và nghiên cứu đã mang lại nhiều kết quả tốt và ít tác dụng không mong muốn hơn.

TS. Hoàng Hà

Khắc phục chứng khó chịu dạ dày vào buổi sáng

Vậy nguyên nhân tình trạng này do đâu và xử trí thế nào?

Khó chịu dạ dày vào buổi sáng - Vì sao?

Đối với phụ nữ ở giai đoạn đầu của thai kỳ, đau bụng có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong ngày nhưng những khó chịu dạ dày thường xảy ra lần đầu tiên vào buổi sáng. Khó chịu dạ dày vào buổi sáng thường không gây nguy cơ cho thai kỳ mặc dù buồn nôn là khó chịu và không thoải mái cho phụ nữ mang thai. Nhưng sau 3 tháng đầu thai kỳ, các triệu chứng thường giảm đi nhanh chóng.

Hội chứng ruột kích thích: là một chứng rối loạn tiêu hóa mạn tính làm thức ăn di chuyển quá nhanh qua đường tiêu hóa. Thông thường, nó không tạo ra bất kỳ thương tổn kéo dài nào trong đại tràng; tuy nhiên, có thể gây ra các khó chịu dạ dày vào đầu buổi sáng và có thể gây ra tiêu chảy. Bất kỳ thay đổi nào trong thói quen ăn uống sinh hoạt hoặc căng thẳng có thể làm các triệu chứng ruột kích thích xuất hiện thường xuyên hơn. Mất ngủ có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng này vào buổi sáng. Khuyến cáo chế độ ăn nhiều chất xơ và dành thời gian thư giãn trước khi đi ngủ có thể giúp ngăn ngừa những rắc rối này.

Thực phẩm giàu tinh bột giúp làm dịu dạ dày.

Thực phẩm giàu tinh bột giúp làm dịu dạ dày.

Viêm dạ dày xảy ra khi lớp niêm mạc trong dạ dày bị kích thích và viêm. Các triệu chứng gồm khó tiêu, ợ nóng, đau bụng và nôn. Rượu có thể gây ra viêm dạ dày vào buổi sáng sớm; những người tiêu thụ một lượng lớn cà phê trong ngày hoặc những người hút thuốc lá trước khi đi ngủ cũng có những vấn đề liên quan với viêm dạ dày. Khả năng xảy ra viêm dạ dày cũng tăng ở người bị bệnh tự miễn dịch hoặc dùng quá nhiều thuốc chống viêm không steroid.

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) có thể gây ra một cơn đau dạ dày mỗi buổi sáng và tình trạng trở nên trầm trọng hơn khi bạn nằm xuống. Trong GERD, dịch trong dạ dày có thể đi ngược trở lại vào thực quản và gây ra các triệu chứng liên quan dạ dày thực quản. Đau dạ dày và ợ nóng trong bệnh GERD có thể đánh thức bạn dậy khi đang ngủ tạo thêm căng thẳng, mệt mỏi do thiếu ngủ. Những cảm giác đau rát vùng thượng vị do trào ngược axit cũng có thể dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng hơn như loét thực quản hay loét dạ dày. Thay đổi chế độ ăn uống, giảm cân và nâng đầu khi ngủ có thể làm giảm các triệu chứng của GERD vào buổi sáng.

Viêm túi mật đôi khi khiến bạn thức dậy với một cơn đau dạ dày buổi sáng. Túi mật là một cơ quan hình quả lê nằm bên dưới gan, làm nhiệm vụ lưu trữ mật, mật có tác dụng tham gia tiêu hóa chất béo trong ruột non. Viêm túi mật cấp tính là một tình trạng viêm và gây sưng túi mật, gây ra đau bụng nặng nề và có thể lan tỏa ra sau lưng.

3 cách xử trí đơn giản có thể tự thực hiện

Sử dụng thực phẩm giàu tinh bột, chẳng hạn như gạo, khoai tây và yến mạch có thể giúp làm dịu dạ dày của bạn. Hãy thử ăn 1 bát cháo yến mạch, 1 bát cháo gạo hoặc bột sắn. Điều này có thể giúp làm dịu dạ dày và hy vọng làm cho đau dạ dày biến mất. Nếu cảm thấy buồn nôn, bạn có thể thử bánh quy mặn, chúng giúp hấp thụ acid dạ dày và làm giảm đau. Bạn có thể thử một loại sữa chua chứa nhiều vi khuẩn sống để giúp cân bằng hệ thống vi khuẩn đường ruột, điều này sẽ giúp giảm bớt đau dạ dày. Chuối cũng được sử dụng để làm dịu dạ dày.

Một lý do mà bạn có thể thức dậy với đau dạ dày là bạn đang khát. Mất nước có thể gây đau dạ dày. Nên dùng 1 ly nước và uống nó từ từ, không nên uống quá nhanh và gây sốc cho dạ dày rỗng. Có thể sử dụng nước trái cây hoặc đồ uống thể thao để bổ sung thêm chất dinh dưỡng hoặc chất điện giải mà bạn có thể bị thiếu.

Nếu muốn nôn, nên làm để dễ nôn những thực phẩm không hợp đang chứa trong dạ dày, nôn được sẽ làm dịu dạ dày nhanh chóng. Có thể chườm nóng vùng dạ dày cũng có tác dụng làm dịu dạ dày. Tập thể dục cổ, đầu cũng làm dịu cơn đau dạ dày buổi sáng bằng cách gập đầu về phía trước và chạm cằm lên hõm cổ rồi ngửa ra sau, mỗi lần giữ trong 10-15 giây. Tiếp theo, nghiêng đầu sang hai bên và giữ tai áp sát tới vai bạn, cố định hai vai, chỉ chuyển động đầu và cổ, mỗi bên giữ trong 10-15 giây.

BS. Nguyễn Hải Lê

Thuốc lá và nguy cơ mắc bệnh Crohn

Từ lâu ngành y đã phát hiện thấy, hút thuốc có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh Crohn, nhưng cơ chế cụ thể gây bệnh vẫn chưa rõ. Nghiên cứu mới của KHU thì cơ chế này đã và đang lộ dần, cung cấp cái nhìn tổng quan tốt hơn về tác hại của hút thuốc lá đối với sức khỏe con người.

Trong nghiên cứu, KHU đã tiến hành kiểm tra tác động của khói thuốc lá trên loài chuột, cho chúng tiếp xúc với khói thuốc tương đương 20 điếu thuốc/ngày, sáu ngày một tuần, trong vài tuần, sau đó đánh giá mức độ viêm phổi và ruột của chuột sau khi phơi nhiễm khói thuốc.

"Đường thở và hệ thống đường ruột có rất nhiều điểm chung. Bởi vậy trong y học cổ truyền của Hàn Quốc, mối liên quan giữa phổi và ruột già đã được con người quan tâm đặc biệt. Bệnh Crohn có nhiều khả năng xảy ra ở những người có bệnh về đường hô hấp, do vậy viêm phổi có liên quan đến chứng viêm ruột", Giáo sư Hyunsu Bae, chủ nhiệm đề tài ở KHU cho hay.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, những con chuột tiếp xúc với khói thuốc lá đã phát triển bệnh viêm phổi với tỷ lệ cao hơn so với nhóm chuột được tiếp xúc với không khí trong lành. Nhóm chuột bị ảnh hưởng đã phát triển bệnh viêm đại tràng tương tự như bệnh Crohn. Ngoài ra, nhóm chuột tiếp xúc với khói thuốc lá còn có mức tăng nhầy và viêm nhiễm trong hệ thống ruột kết, trong phân của chúng còn có cả máu, điều này cho thấy mức độ viêm nhiễm do khói thuốc gây ra không hề nhỏ. Đặc biệt, nhóm chuột tiếp xúc với khói thuốc lá còn bài tiết ra một loại protein tiền viêm có tên interferon-gamma rất cao.

Thử nghiệm trên những con chuột có lượng tế bào máu trắng thấp là những con vật không bị viêm đại tràng sau khi tiếp xúc với khói thuốc lá. Điều này có thể kết luận, tế bào máu trắng là nguyên nhân gây ra bệnh viêm đại tràng sau khi tiếp xúc với thuốc lá. "Kết quả nghiên cứu cùng cố thêm giả thiết khói thuốc lá kích hoạt tế bào máu trắng (hay tế bào bạch huyết) trong phổi, sau đó chúng di chuyển đến ruột kết, gây viêm đại tràng. Người hút thuốc lá, đặc biệt là những người bị bệnh đường ruột nên giảm bớt hút thuốc lá", đồng tác giả, giáo sư Jinju Kim nhận định.

Một nghiên cứu khác công bố năm 2016 cũng cho thấy, hút thuốc không chỉ làm cho bệnh Crohn thêm trầm trọng mà còn làm tăng nguy cơ tái phát bệnh. Kết luận này dựa trên nhiên cứu ở 573 bệnh nhân, chia thành bốn nhóm: Nhóm không hút thuốc, nhóm hút thuốc nay đã bỏ, nhóm hiện đang hút thuốc và những người vừa bỏ thuốc. Nghiên cứu phát hiện thấy những người hút thuốc liên tục thì nguy cơ tái phát bệnh Crohn nhanh hơn, sớm hơn và cao hơn những người không hút thuốc. Tương tự, những người đã từng hút thuốc trước đây và nhóm mới bỏ thuốc lại có tỷ lệ tái phát tương tự như những người không hút thuốc. Đáng tiếc những người mắc bệnh Crohn vẫn không ý thức về mối nguy hiểm này. Ngay cả khi đã có nhận thức, thì rất ít người hút thuốc mắc bệnh Crohn được tư vấn cách bỏ thuốc lá và điều trị bệnh.

Crohn (CD) là bệnh viêm đường ruột, viêm màng đường tiêu hóa có thể dẫn đến đau bụng, tiêu chảy và suy dinh dưỡng trầm trọng. Đây cũng là căn bệnh gây loét đường tiêu hóa từ miệng cho tới hậu môn. Viêm nhiễm do Crohn thường lan truyền sâu vào các lớp mô ruột nên gây đau đớn, suy nhược cơ thể và biến chứng của bệnh có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.

Duy Khoa

(Naturalnews.com 11/2017)

Rượu phá hủy vĩnh viễn DNA, làm tăng nguy cơ ung thư

(deoxyribonucleic) của tế bào gốc có vai trò sản xuất máu mới dẫn đến làm tăng nguy cơ phát triển một số loại ung thư: miệng, cổ họng, thanh quản, thực quản, vú, gan và ruột.

Rượu phá hủy vĩnh viễn DNA, làm tăng nguy cơ ung thư

Trước đây, các nhà nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết rằng acetaldehyde được tạo ra trong quá trình xử lý cồn - acetaldehyde là nguyên nhân dẫn đến việc phát triển các loại ung thư. Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học đã thí nghiệm trên chuột được cho uống rượu pha loãng sau đó chúng được phân tích nhiễm sắc thể và DNA để kiểm tra sự phá hủy do acetaldehyde gây ra. Theo tác giả chính, TS. Ketan Patel: “Chất acetaldehyde có thể phá vỡ và phá hủy cấu trúc DNA trong tế bào máu gốc, điều này khiến việc sắp xếp lại các nhiễm sắc thể và thay đổi vĩnh viễn chuỗi DNA trong các tế bào này. Phát hiện này có thể giải thích cơ chế rượu làm tăng nguy cơ phát triển một số loại ung thư vì một số loại ung thư phát triển do sự hư hại của DNA trong tế bào gốc”. Các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu cách thức cơ thể quản lý acetaldehyde và thấy rằng acetaldehyde bị phá hủy bởi aldehyde dehydrogenases (ALDH). Tuy nhiên, nhiều người ALDH bị khiếm khuyết do đó không thể phá hủy acetaldehyde sau khi uống rượu, điều này cũng giải thích tại sao những người này không thể phục hồi sức khỏe sau khi uống rượu. Và việc tích tụ acetaldehyde này có thể dẫn đến tổn hại DNA lớn hơn.

Tuấn Minh

((Theo NA, 1/2018))

Cách phòng ngừa viêm họng

Xin hỏi nguyên nhân gây bệnh và làm gì để phòng bệnh?

Nguyễn Văn Hưởng (nguyenhuong@gmail.com).

Viêm họng cấp tính là bệnh khá phổ biến, xảy ra quanh năm nhưng khi thời tiết chuyển mùa thì viêm họng cấp dễ dàng xuất hiện. Bệnh thường xuất hiện với các bệnh viêm VA, viêm amiđan. Nguyên nhân có thể do vi khuẩn (phế cầu, liên cầu hoặc các vi khuẩn khác sẵn có ở họng) hay virut cúm, sởi... Ngoài các nguyên nhân trên phải kể đến các yếu tố nguy cơ như thay đổi thời tiết, lạnh quá, ẩm quá, bụi bẩn, bụi công nghiệp, khói (thuốc lá, thuốc lào, khói bếp than, củi, rơm rạ) và có thể do tác động của rượu.

Bệnh thường khởi phát đột ngột, người bệnh sốt cao 39-40oC, nuốt đau, rát họng. Các triệu chứng kèm theo là sụt sịt, tắc mũi và chảy nước mũi nhầy, tiếng nói khàn nhẹ và ho khan. Để phòng ngừa viêm họng cấp, cần vệ sinh răng miệng, họng, mũi thường xuyên và hàng ngày. Nên tắm bằng nước ấm, nhất là với những người mắc bệnh viêm họng tái đi tái lại nhiều lần. Khi bị viêm họng, cần đi khám ngay để nhanh chóng xác định bệnh và điều trị từ những ngày đầu, không nên để bệnh xảy ra vài ba ngày mới đi khám bệnh.

BS. Vũ Ngọc Anh

Nhớ nội dung lâu hơn nhờ đọc to

Các nhà nghiên cứu từ Đại học Waterloo, Canada cho biết: “hành động kép” của việc đọc và nghe giúp não bộ lưu trữ thông tin tốt hơn và sẽ trở thành bộ nhớ dài hạn. Những người trong nghiên cứu được yêu cầu đọc 160 từ bằng các phương pháp: Đọc bằng mắt, lắng nghe người khác đọc, nghe lại lời thu âm của mình và kết hợp nghe với đọc to nội dung. Kết quả cho thấy, những người đọc to nội dung sẽ nhớ lâu hơn 77% những người trong các nhóm nghe lại từ bản ghi âm, nghe người khác đọc to và cuối cùng là đọc bằng mắt. Tác giả chính, GS. Colin M.MacLeod cho biết: “Việc đọc to mọi thứ khiến cho hoạt động này trở nên sinh động và thu hút chúng ta nhiều hơn là đọc bằng mắt. Nghiên cứu này cung cấp thêm một biện pháp tích cực giúp tăng cường trí nhớ dài hạn và chứng minh thấy việc sử dụng nhiều giác quan cùng lúc sẽ khiến việc học tập cũng như ghi nhớ trở nên dễ dàng hơn”.

Quốc Cường

((Theo MNT))

Những điều bất ngờ xảy ra khi xét nghiệm ADN

Tuy nhiên, trong quá trình xét nghiệm ADN đã xuất hiện cả những tình huống con người chưa ngờ tới.

1. Song sinh cùng trứng nhưng khác ADN

ADN là đại phân tử phức tạp mang thông tin di truyền do 2 nhà khoa học Mỹ Watson và Crick phát minh. Nói đơn giản hơn, mọi người đều có vật liệu ADN di truyền từ bố mẹ. Trứng và tinh trùng gặp nhau để hình thành nên cơ thể mới, cơ thể này nhận được ADN một nửa từ mẹ và một nửa từ cha. Tuy nhiên, cha mẹ lại không truyền cho con cái một lượng ADN chính xác. Đây chính là lý do chúng ta sinh ra lại khác nhau về vẻ bề ngoài tuy cùng cùng cha mẹ, ngoại trừ cặp song sinh cùng trứng. Về nguyên lý, các cặp song sinh cùng trứng (Identical twins) có ADN tới 99,9% giống nhau, nhưng thực tế có cặp song sinh cùng trứng lại khác nhau hoàn toàn.

Những điều bất ngờ xảy ra khi xét nghiệm ADNSong sinh cùng trứng nhưng lại 1 trắng, 1 đen

Hiện tượng này phá vỡ nguyên tắc “một nửa từ cha và một nửa từ mẹ”, ADN được truyền cho đứa trẻ theo một cách bất ngờ mà khoa học chưa hiểu hết. Theo BBC, ADN của các bậc phụ huynh gốc châu u và châu Phi có thể truyền lại cho con cái theo một cách riêng, ADN của người u truyền cho con cái người u còn ADN những người gốc Phi lại chỉ truyền cho đứa trẻ người Phi. Qua hiện tượng này cho thấy, khi xét nghiệm ADN, 50% từ mỗi bậc cha hay mẹ song không biết cụ thể là 50% nào.

2. ADN không phải là tất cả

Tuy xét nghiệm ADN ngày càng phổ biến và cần thiết, song thủ thuật này không phản ánh tất cả. Chẳng hạn đối với nhóm người Mỹ bản địa, kết quả chỉ cho thấy họ có nguồn gốc 100% châu u. Những con số đôi khi không tuyệt đối, không phải ADN lúc cũng rạch ròi 50 - 50. Giả sử, một người mang trong mình 19% huyết thống Ý. Vợ (hoặc chồng) là 0% huyết thống Ý, con cái lại có tới 12%, 10%, hay 3% huyết thống Ý. Hay một phụ huynh (vợ hay chồng) có không quá 0,5 huyết thống Do Thái và người còn lại có 1% ADN của người Do Thái Châu u thì con cái họ sinh ra có thể mang 1,5% huyết thống Do Thái châu u, nhiều hơn cả cha mẹ, đây là trường hợp hiếm gặp song vẫn tồn tại trong thực tế. Nếu chúng ta tìm kiếm tổ tiên của người Mỹ bản xứ từ những năm đầu thế kỷ thứ 17 thông qua ADN thì kết quả không chính xác, bởi không tìm thấy những sợi ADN có mặt.

Những điều bất ngờ xảy ra khi xét nghiệm ADNXét nghiệm ADN phổ biến và cần thiết song không phản ánh tất cả mọi thứ

3. Thông tin ADN cần được bảo hộ và dùng cho mục đích chính đáng?

Cấu trúc xoắn kép ADN được xem là vật liệu quan trọng trong cơ thể, và nó cần được pháp luật bảo hộ, mọi thông tin liên quan đến ADN khi cần khai thác, sử dụng phải có sự đồng ý của người trong cuộc. Năm 2017, công ty Ancestry của Mỹ tuyên bố mọi người không được phép “bán dữ liệu di truyền cho các công ty bảo hiểm, nhà tuyển dụng hoặc các nhà tiếp thị thuộc bên thứ ba”. Mới đây, tháng 11 năm 2017, tạp chí Atlanta Journal Constitution Journal đã tiết lộ với trang tin 23 And Me rằng họ đã từ chối không chuyển 5 mẫu ADN cho các cơ quan thực thi pháp luật của Mỹ, tuy niên trước đó Ancestry lại bàn giao số liệu ADN liên quan đến một vụ án mạng cho các cơ quan chức năng của Mỹ. Điều này cho thấy, nếu một người phạm tội, sẽ không được pháp luật bảo hộ mà còn là công cụ chống lại người đó.

Những điều bất ngờ xảy ra khi xét nghiệm ADNNhờ ADN cảnh sát tìm ra Albert DeSalvo kẻ giết người trong vụ án Strangler Boston

DNA không chỉ giải quyết những bí ẩn lịch sử, mà còn có thể giúp cơ quan ninh tìm ra thủ phạm. Ví dụ, tìm thấy thủ phạm trong vụ án giết người rùng rợn có tên Strangler Boston (Kẻ lạ mặt Boston), thủ phạm Albert DeSalvo cuối cùng đã xa lưới vì tội giết người diễn ra năm 1967. Vụ án tìm được thủ phạm là nhờ vật chứng ADN của một cô gái trẻ 19 tuổi Mary Sullivan bị giết năm 1964, nhưng phải đến 49 năm sau người ta mới tìm ra kẻ giết người nhờ ADN của tội phạm phù hợp với ADN của cháu trai. Kết quả 99,9% ADN của kẻ giết người trùng khớp với ADN của đứa trẻ nói trên.

4. ADN cho biết tương lai sức khỏe người trong cuộc

Có những thứ nhờ xét nghiệm ADN lộ ra, ví dụ để tìm kiếm anh em ruột thịt, con cái mà người trong cuộc chưa bao giờ biết mặt, song xét nghiệm ADN còn cho biết tình trạng sức khỏe của người trong cuộc. Ví dụ, qua phân tích ADN, bác sĩ có thể biết được người đó mắc bệnh di truyền gì. Chẳng hạn, phụ nữ thừa hưởng gen BRCA bất thường từ người mẹ, thì nguy cơ ung thư vú cao hơn những người không mang gen này. Nữ diễn viên Hollywood Angelina Jolie, 37 tuổi, đã không giấu giếm kể chuyện bệnh tật của mình với tờ New York Times rằng đã qua cuộc phẫu thuật cắt bỏ vú kép sau khi được kết luận mang gen BRCA1 hay gen ung thư vú nhạy cảm (Breast Cancer Susceptibility Gene) từ người mẹ, người đã bị ung thư buồng trứng ở tuổi 56. Theo Angelina Jolie, bản thân có tới 87% cơ hội mắc bệnh ung thư vú, nên chị đã chọn cách loại bỏ cả hai vú một cách chủ động.

Những điều bất ngờ xảy ra khi xét nghiệm ADNDiễn viên Angelina Jolie

5. Nhờ ADN giải quyết được nhiều bí ẩn liên quan đến Vua Richard III

Theo hãng tin Postmedia News, báo cáo được công bố ngày 17/9/2013 của các nhà khoa học Anh, thì Vua Richard Đệ Tam (King Richard III) dường như đã phải chịu cái chết đau đớn dưới bàn tay của những kẻ tấn công, bị lột da đầu và đâm gươm hay những vật sắc nhọn vào não. Còn theo đề nghị của những người thân gốc Canada của Vua Richard III thì họ muốn biết cụ thể di hài của ông được chôn ở đâu. Đây là vị vua cuối cùng của Hoàng gia Anh, trị vì nước Anh từ năm 1483 cho đến khi ông bị bại trận trong trận chiến Bosworth năm 1485. Thi hài của Vua Richard III được cho là đã bị mang đến Leicester và được chôn cất tại nhà thờ thuộc Chủng viện Franciscan. Nhưng vị trí chính xác của nhà thờ cũng dần biết mất theo thời gian và có lời đồn rằng hài cốt của vua đã bị ném xuống sông Soar sau khi tu viện giải thể.

Những điều bất ngờ xảy ra khi xét nghiệm ADNNhờ xét nghiệm AND người ta biết được vị trí chôn cất Vua Richard III

Theo CNN, dựa trên giả thuyết, các nhà nghiên cứu Anh đã khai quật một địa điểm tại Leicester, địa danh nhà thờ đã từng được xây dựng trước đây nay là bãi ỗ xe. Theo CNN, qua phân tích xương và răng, so sánh ADN với hậu duệ trực tiếp, gồm em gái Richard và một người Canada sống ở London, thì thấy ADN ti thể tại bãi đỗ xe là của Vua Richard III. Theo các nhà khoa học, ADN ty thể thể không thay đổi nhiều từ thế hệ này sang thế hệ kia, vì vậy người ta có thể tìm thấy một dòng họ hoàn chỉnh sau hàng trăm năm sau. Nhờ ADN các nhà khoa học đã chứng minh được trận chiến Vua Richard III và khẳng định xương hài cốt được phát hiện ở bãi đỗ xe là của Richard III. Thậm chí, các nhà khoa học còn phát hiện thấy Vua Richard III không phải là người gù như đề cập trong tác phẩm kịch Shakespeare mà nó chỉ là phép hoán dụ trong nghệ thuật, còn Richard III thực sự bị mắc chứng vẹo cột sống.

DS. TRANG NHUNG

(Theo Grunge.com-12/2017)

Lưu ý khi dùng calcitonin chống loãng xương

Có phải bác sĩ kê nhầm thuốc cho tôi không? Khi dùng cần chú ý điều gì?

Trần Mai Hồng (Bắc Giang)

Có thể khẳng định rằng bác sĩ đã kê đúng thuốc cho bạn. Đây là hormon do tế bào cận nang của tuyến giáp bình thường ở các động vật và do hạch cuối mang ở cá tiết ra và là polypeptid chứa 32 acid amin, có chức năng điều hòa trung ương đối với chuyển hóa khoáng chất, tích cực ngăn ngừa tiêu xương, vì thế được dùng là thuốc ức chế tiêu xương, chống loãng xương và chống tăng calci huyết. Đối với loãng xương ở phụ nữ mãn kinh, calcitonin thường được kết hợp dùng với canxi và vitamin D để ngăn ngừa tiến triển mất khối lượng xương ở đối tượng này.

Khi dùng thuốc cần sự tư vấn của bác sĩ chuyên khoa. Ảnh: TM

Khi dùng thuốc cần sự tư vấn của bác sĩ chuyên khoa. Ảnh: TM

Do calcitonin là thuốc bị phá hủy ở dạ dày làm mất tác dụng của thuốc nên thuốc không được bào chế dưới dạng uống mà được dùng theo đường tiêm hoặc phun mũi. Đối với đường tiêm, cần phải sử dụng trong cơ sở y tế, dạng phun mũi thường được các bác sĩ kê đơn điều trị ngoại trú cho bệnh nhân. Vì vậy, bạn hãy yên tâm dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ.

Tuy nhiên, khi dùng cần lưu ý một số bất lợi của thuốc có thể xảy ra như buồn nôn, lạnh, đỏ bừng (điều này chủ yếu phụ thuộc vào liều dùng) và đa số không phải ngừng thuốc. Khó chịu thường giảm dần khi tiếp tục điều trị.

Nên thăm khám mũi trước khi bắt đầu điều trị bằng calcitonin và bất kỳ lúc nào khi có khó chịu về mũi để ngăn ngừa sự thay đổi niêm mạc hoặc những bệnh tạm thời ở mũi.

Trong quá trình dùng thuốc, nếu thấy có biểu hiện như tê cóng, cảm giác kim châm vùng xung quanh miệng và đầu ngón tay, chân (những dấu hiệu này có nguồn gốc thần kinh cơ, bao gồm tăng phản xạ gân, chuột rút ở cơ và bụng, co cứng cổ tay, bàn chân, co giật...), rất có thể bạn bị hạ canxi huyết do dùng quá liều thuốc. Trong trường hợp này, cần ngừng thuốc và được xử trí y tế kịp thời.

BS. Đinh Ngọc San

Bồn tắm trợ giúp bệnh nhân di chuyển khó khăn

Vòi tắm Poseido có ghế ngồi trượt đặt trong buồng tắm hình trụ. Người dùng tự xoay mình khỏi xe lăn và chuyển sang ghế trượt và di chuyển vào buồng tắm. Bảng điều khiển sẽ kích hoạt hệ thống ghế trượt, kiểm soát nhiệt độ nước, áp lực nước và xà phòng tắm. Ngoài ra còn có một vòi tắm cầm tay riêng. Sau khi tắm xong, ghế sẽ di chuyển ra khỏi buồng tắm và người dùng có thể xoay người sang xe lăn mà không cần chạm chân lên sàn ướt. Theo các nhà thiết kế, Poseindo giúp giảm bớt trung bình 10 phút mỗi lần tắm cho người sử dụng và giảm các nguy hiểm do trơn trượt.

Quốc Tuấn (Theo NA)

Bệnh nang gan

Bệnh ít khi có dấu hiệu biểu hiện mà thường được phát hiện tình cờ khi khám sức khỏe định kỳ hoặc khám một bệnh khác bằng việc chụp CT-Scaner hoặc MRI, siêu âm, nội soi ổ bụng.

Nang gan có kích thước thay đổi từ vài milimét đến 15cm, một người có thể có một hay nhiều nang. Phần lớn nang gan là lành tính nhưng việc phát hiện sớm để điều trị kịp thời là rất cần thiết, nhất là đối với các trường hợp nang ký sinh trùng và nang ung thư.

Các loại nang gan

Nang gan có nhiều loại khác nhau, và mỗi loại có nguyên nhân và cách điều trị khác nhau như sau:

1 Nang đơn giản: đây là loại nang bẫm sinh và rất thường gặp, có đường kính <3cm, chúng xuất hiện từ khi sinh ra và trong lòng nang chứa chất lỏng giống mật. Nang gan là một sang thương lành tính và khá phổ biến và chiếm tỉ lệ khoảng 5% dân số.

2 Nang ký sinh trùng: đây là loại nang có nguyên nhân do giun kim gây ra, chúng xâm nhập và ký sinh trong cơ thể con người gây ra nang gan.

Nang tuyến: u nang tuyến là loại nang bẫm sinh, chúng xuất hiện ngay từ khi sinh ra.

Bệnh nang ganThường được phát hiện tình cờ khi khám sức khỏe định kỳ hoặc khám môt bệnh khác

Nang ung thư: cơ chế khối u nang chuyển thành ung thư vẫn chưa được xác định. Tuy nhiên, nang ung thư thường phát triển chậm và có đường kính trung bình khoảng 12cm.

Gan đa nang: loại nang được hình thành do rối loạn di truyền và rất hiếm gặp, biểu hiện bằng sự hiện diện của hơn 20 nang gan. Các nang này có từ khi sinh ra và nối thành chùm với nhau như chum nho.

Trong phần lớn các trường hợp, nang gan không có bất cứ một dấu hiệu nào báo hiệu bệnh. Tuy nhiên, có khoảng 10 - 15% người có nang gan là có dấu hiệu báo hiệu và cần đến sự can thiệp của y khoa.

Hiếm khi nang gan được phát hiện trước tuổi trưởng thành, khi tuổi càng lớn, kích thước của nang gan càng tăng, kích thước nang gan tỉ lệ với tần suất xuất hiện các triệu chứng và biến chứng.

Những biến chứng

Vì thế, trừ khi được phát hiện tình cờ, nang gan thường được xác định khi người bệnh có độ tuổi từ trung niên trở lên. Biểu hiện thường gặp nhất của nang gan là đau tức vùng thượng vị, vùng hạ sườn phải, đau ở vùng gan, chướng bụng, người bệnh kém ăn, buồn nôn, nôn, hô hấp khó khăn. Nếu không được điều trị tích cực và kịp thời sẽ có những biến chứng sau:

- Nang gan chèn ép vào đường mật làm cho bệnh nhân vàng da hay khi nó chèn vào tĩnh mạch cửa sẽ gây tăng áp lực tĩnh mạch cửa.

- Nang gan có thể vỡ hay xuất huyết sau chấn thương vùng gan và cũng có thể vỡ do tự nhiên.

- Nếu nang di động có thể làm cho nang bị xoắn. Khi đó người bệnh sẽ có biểu hiện là đau bụng dữ dội và đột ngột.

- Nang gan bị bội nhiễm và tạo thành ápxe gan.

Nang gan điều trị ra sao?

Chọc hút nang gan là biện pháp điều trị thường được lựa chọn trước tiên. Tuy nhiên, biện pháp này không có hiệu quả bởi vì bản chất của dịch nang là luôn luôn được tái lập cho nên sau khi chọc hút thì sẽ tái lập dịch. Kế đến là biện pháp kết hợp giữa chọc hút dịch nang với tiêm các chất gây xơ hóa nhưng kết quả vẫn rất hạn chế. Vì chất gây xơ hóa chỉ phát huy tác dụng khi nang gan xẹp và vách nang áp lại với nhau, mà điều này hiếm khi xảy ra.

Cắt chỏm nang gan qua nội soi, đây là phương pháp điều trị nang gan được sử dụng hiện nay. Phương pháp này có kỹ thuật đơn giản nhưng kết quả thành công cao, khoảng 90%. Phẫu thuật cắt chỏm là phương pháp tương đối an toàn. Biến chứng thường gặp nhất là tụ dịch mật dưới gan hay dưới hoành do mật rỉ từ mép gan bị cắt.

Trong trường hợp nang gan nhiễm trùng tạo thành ápxe gan. Nguyên tắc điều trị nang gan nhiễm trùng là sự phối hợp kháng sinh với thoát lưu mũ. Trong trường hợp nang xuất huyết hay vỡ nang, phải dùng phương pháp phẫu thuật cắt gan.

BS. HỒ VĂN CƯNG

Điều chỉnh rối loạn mỡ máu thế nào?

Xin hỏi bệnh của tôi có thể gặp biến chứng gì? Tôi nên ăn uống thế nào để phòng và chữa bệnh?

Thái Thị Thơm (thaithom@gmail.com)

Cholesterol là thành tố chủ yếu của màng tế bào và cũng là yếu tố chính để tổng hợp các nội tố như glucocorticoid, aldosteron và acid mật. Triglycerid đóng vai trò quan trọng trong vận chuyển năng lượng từ thức ăn vào trong tế bào. Tăng mỡ máu là nguy cơ gây nên gan nhiễm mỡ, nặng hơn là suy giảm chức năng gan và ung thư gan. Để dự phòng và điều trị tăng mỡ máu thì chế độ ăn uống đóng vai trò quyết định. Cụ thể, nên ăn nhiều rau quả, khoảng 500g rau xanh/ngày giúp thải cholesterol trong lòng ruột ra ngoài, góp phần làm hạ cholesterol máu. Người bị mỡ máu cao nên giảm ăn các chất béo, không uống nhiều bia rượu, không hút thuốc lá vì nó thúc đẩy quá trình xơ vữa động mạch và làm tăng mỡ máu. Cụ thể dùng đạm ít béo như thịt bò nạc, thịt gà nạc bỏ da, thịt lợn thăn, nên dùng cá vì cá chứa nhiều acid béo omega-3, acid này không những giảm cholesterol mà còn giảm cả triglycerid; bớt lượng đạm giàu mỡ như thịt nửa nạc nửa mỡ, dùng dầu lạc, dầu đậu nành thay cho mỡ động vật, loại bỏ thức ăn nhiều acid béo no như mỡ, bơ và các thực phẩm có nhiều cholesterol như óc, lòng phủ tạng, đồ hộp béo. Các chuyên gia tim mạch cũng khuyến cáo, để điều chỉnh rối loạn mỡ máu, ngoài chế độ ăn uống phải kết hợp với tập luyện đều đặn, nếu 3 tháng không hiệu quả thì có thể bác sĩ sẽ chỉ định dùng thuốc hạ mỡ máu.

BS. Hồng Ngọc

Điều 2 xe cấp cứu chở bác sĩ đến cứu sống bệnh nhân nguy kịch

Thông tin từ Bệnh viện Xanh Pôn cho biết, cuối giờ chiều ngày 4/1/2018, Bệnh viện Xanh Pôn- nhận được cuộc điện thoại xin tăng cường khẩn cấp từ tuyến dưới để cấp cứu bệnh nhân bị thương tích nghiêm trọng. Ngay lập tức, Ban lãnh đạo bệnh viện đã điều động một ê kíp phẫu thuật và hồi sức cấp cứu đến Bệnh viện Đa khoa Sóc Sơn cứu bệnh nhân.

Theo bác sỹ Ôn Quang Phóng, Phụ trách ê kíp phẫu thuật của bệnh viện Xanh Pôn, thông tin ban đầu mà các bác sỹ của Bệnh viện Đa khoa Sóc Sơn cung cấp, bệnh nhân tên T. bị đâm 3 nhát vào bụng và ngực khiến toàn bộ tá tràng bị đứt làm đôi, đầu tụy bị rách, dạ dày bị xuyên thủng. Động mạch vị phải bị đứt và chảy máu dữ dội, nhánh phải tĩnh mạch gan cũng bị đứt rời, cơ hoành bị thủng gây tràn máu tràn khí màng phổi cả hai bên.

“Khi bệnh nhân T. được đưa vào viện, các bác sỹ của Bệnh viện Đa khoa Sóc Sơn nhận thấy đây là một ca khó nên song song với quá trình cấp cứu cho bệnh nhân, bác sỹ của Bệnh viện Đa khoa Sóc Sơn đã gọi điện cho lãnh đạo Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn xin trợ giúp”, bác sỹ Phóng kể lại.

Bs. Ôn Quang Phóng thăm khám cho bệnh nhân

Cũng theo bác sỹ Phóng, trên đường đi, kíp cấp cứu liên tục liên lạc với Bệnh viện Đa khoa Sóc Sơn để cập nhật tình hình bệnh nhân. Sau khi xâu chuỗi các thông tin, xác định được những thương tổn nặng và cần những dụng cụ chuyên sâu mà Bệnh viện Đa khoa Sóc Sơn không có nên kíp cấp cứu đã gọi điện thoại về Bệnh viện Xanh Pôn xin trợ giúp. Ngay sau đó theo sự chỉ đạo của lãnh đạo Bệnh viện Xanh Pôn, một xe cấp cứu khác mang theo dụng cụ phẫu thuật, chỉ khâu mạch máu đuổi nối đuôi xe cấp cứu trước đó để kịp mang dụng cụ tới.

Nói về quá trình cấp cứu cho bệnh nhân T. , bác sỹ Vũ Văn Khâm, Khoa Hồi sức tích cực ngoại Bệnh viện Xanh Pôn, phụ trách ê kíp hồi sức cho biết thêm, nhận thấy đây là ca bệnh quá nặng do vậy tất cả ê kíp đã chạy đua với thời gian để đến nơi sớm nhất.

Theo bác sỹ Khâm, khi đến nơi, ê kíp tiếp nhận bệnh nhân trong tình trạng rất nguy kịch, mất máu quá nhiều, huyết áp tụt, tối đa còn 40-50mmHg, tổn thương bên trong rất nghiêm trọng, nguy cơ tử vong nếu không được xử trí kịp thời.

“ Bệnh viện Sóc Sơn đã làm rất tốt công tác sơ cứu ban đầu, bệnh nhân đã được dẫn lưu màng phổi bên trái, truyền dịch, truyền máu cho bệnh nhân. Tuy nhiên, điều khó khăn là vì bệnh nhân T. bị đâm 3 nhát liên tiếp nên máu chảy quá nhiều, dẫn đến thiếu máu trầm trọng, bệnh viện phải huy động nguồn máu hiến từ nhiều người tình nguyện, trong đó có cả nhân viên y tế”, bác sỹ Khâm nói.

Qua lời kể của bác sỹ Khâm, quá trình phẫu thuật cho bệnh nhân T. mất khoảng 2 giờ, đây là cả sự cỗ gắng nỗ lực của các y, bác sỹ trong phòng phẫu thuật để mong giành lại sự sống cho bệnh nhân từ tay tử thần. Kết quả, ca phẫu thuật đã thành công như mong đợi của cả 2 bệnh viện khi các mạch máu đứt rời được nối lại. Sau mổ khoảng 3 giờ, mạch và huyết áp của bệnh nhân T. đã duy trì ổn định, bệnh nhân được chuyển về Bệnh viện Xanh Pôn để tiếp tục hồi sức.

Trả lời phóng viên báo Sức khỏe và Đời sống, bác sĩ Ôn Quang Phóng cho biết, đến nay, sau 1 tuần điều trị tích cực, bệnh nhân T. đã được rút ống nội khí quản và hoàn toàn tỉnh táo, nói chuyện được. Sang tuần sau, bệnh nhân có thể được ra viện.

Hải Yến